Có nhiều nguyên nhân và yếu tố khác nhau có thể làm hạ huyết áp. Trong đó có các nguyên nhân nguy hiểm như bệnh tim mạch, thận, nhiễm trùng nặng… Cũng có một số nguyên nhân phổ biến gây tụt huyết áp nhưng ít nguy hiểm hơn. Hạ canxi máu là một trong những nguyên nhân này. Sau đây, mời bạn cùng bác sĩ Lương Sỹ Bắc tìm hiểu mối liên quan giữa tụt huyết áp và tụt canxi để có thái độ xử trí phù hợp.
Phân biệt tụt huyết áp và tụt canxi máu
Mối quan hệ giữa tụt huyết áp và tụt canxi máu1 2
Hạ canxi là một trong những nguyên nhân phổ biến gây tụt huyết áp. Đặc biệt thường gặp ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, suy kiệt, ăn uống kém. Khi có hạ canxi máu thì chắc chắn có ảnh hưởng ít nhiều tới huyết áp. Hạ canxi máu nhiều thậm chí có thể nguy hiểm tới tính mạng bệnh nhân. Tuy nhiên cũng có nhiều nguyên nhân gây hạ huyết áp không liên quan đến canxi máu.
Cả hai tình trạng trên có cùng một số biểu hiện như: chóng mặt, cảm giác yếu tay chân, đau nhức cơ, mệt mỏi…
Phân biệt tụt huyết áp và hạ canxi máu1 3
Tụt huyết áp | Tụt canxi máu | |
Định nghĩa | Là tình trạng huyết áp tâm thu nhỏ hơn 90 mmHg và/ hoặc huyết áp tâm trương nhỏ hơn 60 mmHg. | Là tình trạng nồng độ calci huyết thanh |
Biểu hiện | Biểu hiện của giảm cung cấp máu các cơ quan trong cơ thể:
Để chat, gọi điện và đặt khám bác sĩ chuyên về Huyết áp, tải ngay ứng dụng YouMed.
|
Biểu hiện của giảm cung cấp canxi cho hoạt động các cơ quan:
|
Nguyên nhân | Có nhiều nguyên nhân với mức độ nguy hiểm khác nhau, trong đó có hạ canxi máu.2 |
|
Điều trị tụt huyết áp và tụt canxi máu
Khi hai tình trạng trên xảy ra đồng thời, ưu tiên đầu tiên là ổn định huyết áp cho bệnh nhân. Tiếp đó là tầm soát các nguyên nhân nguy hiểm khác có thể gây hạ huyết áp. Nếu hạ canxi là nguyên nhân gây hạ huyết áp thì điều trị hạ canxi sẽ giúp làm ổn định huyết áp trở lại.
Điều trị hạ canxi máu có nhiều phương pháp với thái độ tiếp cận khác nhau. Trước tiên cần xác định nguyên nhân hạ canxi máu và điều trị bệnh nguyên đó. Một số tình trạng tuyến giáp và cận giáp có thể nhập viện với tình trạng cấp cứu. Khi đó điều trị canxi chỉ là một phần nhỏ trong điều trị bệnh nguyên.
Nếu hạ canxi máu nguy hiểm có thể cho bù canxi qua đường tĩnh mạch. Nhẹ hơn có thể bù canxi qua đường uống. Những bệnh nhân hạ canxi máu mãn tĩnh có thể kết hợp với chế độ dinh dưỡng có thực phẩm giàu canxi và vitamin D.
Mặt khác, ổn định huyết áp là ưu tiên hàng đầu khi điều trị bệnh nhân. Nếu nhập viện trong tinh trạng cấp cứu, bệnh nhân có thể được bù dịch, bù điện giải qua đường tĩnh mạch. Thậm chí nếu nguy hiểm còn phải sử dụng thuốc vận mạch, trợ tim…
Đối với bệnh nhân huyết áp thấp mãn tính, cần thay đổi chế độ ăn, chế độ tập luyện, lối sống… Thuốc điều trị huyết áp thấp ít khi được sử dụng và phải có chỉ định của bác sĩ. Điều trị tụt huyết áp và tụt canxi máu cần nhanh chóng và chính xác để giảm các biến chứng.1 2 3
Xem thêm: Vitamin D có trong thực phẩm nào, bạn đã biết chưa?
Phòng ngừa tụt huyết áp và hạ canxi máu
Có thể phòng ngừa tụt huyết áp và tụt canxi máu thông qua điều chỉnh chế độ ăn, lối sống. Một số biện pháp cụ thể như:1 3
- Một chế độ ăn uống cung cấp đủ canxi có thể giúp giảm nguy cơ hạ canxi máu. Các thực phẩm giàu canxi có thể kể đến gồm các loại hải sản như tôm, cua, sò, mực, cá hồi… Sữa và các sản phẩm từ sữa như phô mai, sữa chua cũng chứa nhiều canxi. Chỉ nên bổ sung viên canxi uống khi có chỉ định của bác sĩ.
- Ánh sáng cũng rất quan trọng trong việc chuyển hóa vitamin D, giảm thiểu tình trạng hạ canxi máu. Không nên sinh hoạt lâu ngày trong bóng tối. Tuy nhiên cũng nên tránh ánh sáng mặt trời quá gay gắt.
- Hạn chế bia rượu, cà phê vì những chất này giảm khả năng hấp thu canxi của cơ thể.
- Nhóm người có nguy cơ thiếu canxi như người già, phụ nữ mang thai, bệnh nhân bệnh tuyến giáp, cận giáp, bệnh thận nên được theo dõi hạ canxi máu.
- Luyện tập thể dục, thể thao đều đặn góp phần ổn định huyết áp và giúp cơ xương vững chắc.
- Giảm cân, giữ trọng lượng cơ thể vừa phải.
Tụt huyết áp và tụt canxi là hai tình trạng bệnh có thể liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu không được xử trí kịp thời, có thể có các biến chứng nguy hiểm. Ưu tiên đầu tiên là phải ổn định huyết áp của bệnh nhân. Tiếp theo là điều trị bệnh nguyên và điều trị triệu chứng. Các biện pháp dự phòng cũng rất quan trọng đối với nhóm bệnh nhân có nguy cơ.